Tổng quan về viêm màng não – viêm não
Não được bảo vệ bởi 3 lớp màng, bao gồm màng cứng, màng nhện và màng mềm. Viêm não là khi tác nhân gây bệnh tấn công trực tiếp vào nhu mô não và nguyên nhân thường thấy là do virus đường ruột HIB hay virus viêm não Nhật Bản.
Còn viêm màng não là viêm màng mềm, các tác nhân gây bệnh tấn công vào màng bao quanh não và khi nặng mới ảnh hưởng đến não.
Tuỳ theo nguyên nhân gây bệnh mà bệnh lý não – màng não do nhiễm trùng có tên gọi riêng như:
– Bệnh viêm não Nhật Bản là viêm não do virus gây viêm não Nhật Bản. Đây là bệnh lây qua đường muỗi đốt và thường gặp ở vùng nông thôn. Virus gây bệnh truyền từ lợn, chim mang mầm bệnh sang người qua trung gian là muỗi.
– Bệnh viêm não do virus đường ruột (Enterovirus), từ đường tiêu hóa tấn công vào não gây viêm não và nguy hiểm nhất là Enterovirus 71.
– Bệnh viêm màng não hay nhiễm trùng huyết do não mô cầu, tác nhân là virus não mô cầu, bệnh nhân có thể tử vong nhanh nếu gặp thể tối cấp.
– Bệnh viêm màng não do HIB do vi trùng HIB gây ra, là vi trùng rất thường gặp ở trẻ nhỏ, đặc biệt với trẻ dưới 3 tuổi.
Biểu hiện đặc trưng của viêm màng não – viêm não
Nếu mắc viêm màng não sẽ có biểu hiện bị nhức đầu, nôn, táo bón, cổ cứng, sốt… Còn nếu mắc viêm não các triệu chứng sẽ là rối loạn vận động, rối loạn ý thức (liệt nửa người, liệt các dây thần kinh, chậm chạp, lơ mơ, hôn mê).
Cũng có trường hợp mắc cả viêm màng não – viêm não, lúc đó ở người bệnh sẽ xuất hiện triệu chứng đặc trưng trên lâm sàng là sốt, đau đầu, buồn nôn, các dấu hiệu màng não như cứng gáy… Tuy nhiên, chẩn đoán viêm màng não – viêm não không đơn giản.
Cách tiếp cận sau đây có thể hỗ trợ cho việc chẩn đoán căn nguyên của các viêm màng não – viêm não.
1. Biểu hiện lâm sàng của viêm màng não – viêm não
+ Nếu viêm màng não do phế cầu có thể đi kèm với viêm phổi.
+ Nếu viêm màng não do quai bị thường đi kèm với sưng tuyến mang tai.
+ Viêm màng não do Leptospira có thể có biểu hiện suy gan thận.
– Khi bị viêm màng não thì người bệnh sẽ có các dấu hiệu thần kinh và các tổn thương thần kinh khu trú. Đa số người bệnh có rối loạn tinh thần, thường có tình trạng phù não, hoặc có tổn thương não.
+ Nếu bệnh nhân viêm màng não do vi khuẩn thường có biểu hiện màng não rõ rệt (như cứng gáy, dấu Kernig).
+ Trong khi bệnh nhân viêm màng não do lao và nấm thường có dấu hiệu màng não kín đáo hoặc chỉ có đau đầu đơn thuần.
+ Các dấu hiệu thần kinh khu trú thường gặp trong viêm màng não – viêm não do lao, áp-xe não hoặc viêm não do Toxoplasma.
2. Yếu tố dịch tễ, tiền sử của viêm màng não – viêm não
Khi nghi ngờ viêm màng não – viêm não, các bác sĩ sẽ khai thác yếu tố dịch tễ và tiền sử của người bệnh.
Viêm màng não – viêm não thường khởi phát bệnh cấp, nếu nguyên nhân là do virus và vi khuẩn; các bệnh viêm màng não do lao và nấm thường khởi phát bệnh có biểu hiện từ từ.
Đối với dịch tễ ở miền Bắc nước ta viêm não Nhật Bản thường xuất hiện vào mùa xuân – hè. Người bị viêm màng não do T. Spiralis có thể có tiền sử ăn thịt lợn rừng hoặc lợn thả rông ở vùng cao không được nấu chín kỹ…
Các yếu tố khác như trẻ em thường bị viêm màng não do H. Influenzae, E. Coli; người có tiền sử chấn thương hoặc phẫu thuật thần kinh, thường bị viêm màng não do S. Aureus hoặc Ps. Aeruginosae; người có các ổ viêm kế cận sọ não (viêm tai giữa, viêm xoang…) thường bị viêm màng não do phế cầu và có thể có các ổ áp-xe não; người bị nhiễm HIV thường bị viêm màng não do nấm Cryptococcus, lao, hoặc viêm não do Toxoplasma.
3. Xét nghiệm dịch não tủy
Để chẩn đoán viêm màng não – viêm não, ngoài các biểu hiện và dịch dễ, các bác sĩ sẽ yêu cầu chọc dò tủy sống và xét nghiệm dịch não tủy (cần soi đáy mắt, loại trừ phù não lan tỏa và khu trú nếu nghi ngờ trước khi chọc dò). Ngoại trừ bệnh nhân viêm màng não có chống chỉ định thì sẽ được thực hiện xét nghiệm này.
– Xét nghiệm khác
Đối với người bệnh viêm màng não – viêm não, các bác sĩ sẽ chỉ định thêm các xét nghiệm như:
+ Xét nghiệm sinh hóa: xét nghiệm protein, đường, chloride và phản ứng Pandy cho dịch não tuỷ, để có thể cung cấp các gợi ý cho chẩn đoán: Viêm màng não do vi khuẩn, viêm màng não do virus…
+ Xét nghiệm số lượng và thành phần tế bào: để xác định thành phần tế bào trong dịch não tủy và xem xét cùng với thời gian bị bệnh. Nếu viêm màng não mủ thường có số tế bào tăng cao ngay từ những ngày đầu của bệnh, với thành phần chủ yếu là bạch cầu đa nhân trung tính.
Nếu viêm màng não do virus thường có số tế bào cao vào tuần đầu của bệnh, sau đó giảm dần, thành phần thường là bạch cầu lymphô…
+ Xét nghiệm vi sinh: thực hiện các xét nghiệm soi tươi, nuôi cấy và các xét nghiệm vi sinh khác với dịch não tủy nếu có chỉ định và có điều kiện.
+ Xét nghiệm công thức máu: điều này cho thấy tăng bạch cầu thường gặp trong các bệnh viêm màng não do vi khuẩn.
+ Nuôi cấy máu tìm vi khuẩn: nhiều bệnh nhân viêm màng não đi kèm với nhiễm khuẩn huyết (phế cầu, một số loại liên cầu khác, não mô cầu…) và vi khuẩn có thể phân lập được từ máu (nên cấy máu trước khi cho kháng sinh đặc hiệu).
+ Các phản ứng huyết thanh học: có thể thực hiện được với các bệnh giang mai, viêm não Nhật Bản, nhiễm A. Cantonensis…
+ Cần chụp phim X – quang phổi: nếu viêm màng não do phế cầu có thể có tổn thương viêm phổi trên phim X – quang; tổn thương phổi có thể tìm thấy trong các bệnh viêm màng não đi kèm với nhiễm trùng huyết như nhiễm tụ cầu, H. Influenzae type B, K. Pneumoniae.
+ Cần chụp cắt lớp vi tính (CT) sọ não: điều này được chỉ định khi bệnh nhân có tổn thương thần kinh khu trú hoặc khi bệnh kéo dài.
Tóm lại: Viêm màng não – viêm não có thể tiến triển dẫn đến nhiều biến chứng nặng nề. Trong thời gian điều trị người bệnh sẽ có những tổn thương thần kinh vĩnh viễn, sau này càng tăng lên. Các tổn thương thường thấy là mất thính giác, trí nhớ suy giảm, khuyết tật học tập, chậm phát triển trí tuệ, tổn thương não, suy thận, động kinh, sốc, tử vong… Nếu điều trị kịp thời, người bệnh thường sẽ phục hồi tốt.
Vì vậy, khi nghi ngờ cần tới cơ sở y tế để được chẩn đoán và điều trị. Bởi trên thực tế đa số biểu hiện của viêm màng não – viêm não dễ bị bỏ sót hoặc nhầm với các bệnh thông thường, nhiều người bệnh tự mua thuốc hạ sốt, giảm đau đầu… về để dùng, khi đến bệnh viện thì các biểu hiện bệnh lý đã nặng. Tuyệt đối, không điều trị theo mách bảo, không tự mua thuốc uống dẫn đến bệnh lý nặng hơn.
Tác giả bài viết: BS Nguyễn Văn Dũng
Nguồn tin: suc khoecongdong.vn